Trở lại Am Tiên - Ngàn Nưa
Na Sơn – Núi Nưa – Ngàn Nưa, một nguồn đề tài hầu như vô tận.
Chúng ta đã ngược dòng thờigian tìm hiểu Am Tiên núi Nưa (*),
nhưng chưa đủ, cũng nên “Trở lại An Tiên núi Nưa” để biết
thêm chuyện xưa, chuyện nay, chuyện xưa cảnh tiên chuyện nay đền Mẫu.
Chúng ta đã ngược dòng thờigian tìm hiểu Am Tiên núi Nưa (*),
nhưng chưa đủ, cũng nên “Trở lại An Tiên núi Nưa” để biết
thêm chuyện xưa, chuyện nay, chuyện xưa cảnh tiên chuyện nay đền Mẫu.
Các sử sách cổ như Dư địa chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống
chí của Quốc sử quán triều Nguyễn,... đều chép thống nhất sự tích người
Tiều phu núi Nưa, cũng như trước đó, Nguyễn Dữ đã kể trong sách Truyền
kỳ mạn lục:
chí của Quốc sử quán triều Nguyễn,... đều chép thống nhất sự tích người
Tiều phu núi Nưa, cũng như trước đó, Nguyễn Dữ đã kể trong sách Truyền
kỳ mạn lục:
"Đất Thanh Hoa phần nhiều là núi, bát ngát bao la đến mấy nghìn dặm.
Trong đó có một ngọn núi cao chót vót tên gọi là núi Nưa. Núi có động
dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu, bụi trần không bén tới, chân người
không bước tới. Hằng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra,
đem đánh đổi lấy cá và rượu cốt được no say chứ không lấy một đồng
tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ em dưới đồng bằng lại nói chuyện những
việc trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, người
tiều phu chỉ cười, không trả lời. Mặt trời ngậm núi, người tiều phu lại
thủng thỉnh về động, vừa đi vừa gõ đòn gánh mà hát:
Trong đó có một ngọn núi cao chót vót tên gọi là núi Nưa. Núi có động
dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu, bụi trần không bén tới, chân người
không bước tới. Hằng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra,
đem đánh đổi lấy cá và rượu cốt được no say chứ không lấy một đồng
tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ em dưới đồng bằng lại nói chuyện những
việc trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, người
tiều phu chỉ cười, không trả lời. Mặt trời ngậm núi, người tiều phu lại
thủng thỉnh về động, vừa đi vừa gõ đòn gánh mà hát:
Núi Na đá mọc chênh vênh,
Cây tùm um, nước long lanh khói mờ.
Đi về hôm sớm thẩn thơ,
Mình dư áo lá, cổ thừa chuỗi hoa.
Non xanh bao bọc quanh nhà,
Ruộng đem sắc biếc xa xa diễu ngoài.
(Trúc Khê dịch)
Đời Hồ Hán Thương (1400 - 1407) nghe tiếng người tiều phu, sai sứ
giả mời ra giúp việc. Ông lão mời sứ vào động núi, nhưng chỉ toàn nói
chuyện chê trách việc làm của thời bấy giờ chứ không chịu ra làm
quan cho tân triều. Sứ giả về tâu với Hán Thương. Hán Thương lại
sai sứ đi mời lần nữa. Người tiều phu muốn lánh mặt. Sứ giả chỉ thấy
rêu mọc lan khắp cửa động, đường vào khi trước đã bị che lấp mất
rồi. Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi Nưa thì thấy một con hạc
đen vút lên trên không bay đi...
giả mời ra giúp việc. Ông lão mời sứ vào động núi, nhưng chỉ toàn nói
chuyện chê trách việc làm của thời bấy giờ chứ không chịu ra làm
quan cho tân triều. Sứ giả về tâu với Hán Thương. Hán Thương lại
sai sứ đi mời lần nữa. Người tiều phu muốn lánh mặt. Sứ giả chỉ thấy
rêu mọc lan khắp cửa động, đường vào khi trước đã bị che lấp mất
rồi. Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi Nưa thì thấy một con hạc
đen vút lên trên không bay đi...
Tiến sĩ Hán học Phan Huy Ôn quê Hà Tĩnh (thế lỷ XVIII) có lần du
ngoạn danh sơn thắng tích núi Nưa, hứng bút đề thơ:
ngoạn danh sơn thắng tích núi Nưa, hứng bút đề thơ:
Phiên âm:
Nông Cống chi tây vạn lĩnh hoàn,
Sa nga Na lĩnh bức vân gian.
Thiên lưu dật thú nham khê cổ,
Đạo quýnh tri thần thảo thụ nhân.
Động kính dĩ tùy Tiều ẩn diểu,
Sơn dung bất vị Hán Thương hàn.
(Tài liệu thiếu 2 câu)
Dịch thơ:
Trập trùng núi dựng trời tây,
Na Sơn một dải xuyên mây chín tầng.
Thú riêng ai lánh bụi trần,
Đồi cây, khe đá dành phần riêng ai.
Lối Tiều cỏ lấp rêu phai,
Vẫn nguyên dáng núi cợt ngài Hán Thương.
(Hoàng Tuấn Phổ)
Người Tiều phu ấy vốn làm quan nhà Trần, khi họ Hồ cướp ngôi,
không chịu phò tá tân triều, bỏ vào núi Nưa ở ẩn. Ông lánh đời nhưng
vẫn yêu đời, tự kiếm sống bằng việc hái củi đem xuống chợ đổi
lấy cá, rượu, không lấy tiền bạc, không tích lũy của cải để dành. Khi
gặp nông dân, ông hay nói những chuyện trồng dâu, trồng gai, và
chính ông cũng trồng một vườn cây thuốc để chữa bệnh cứu đời.
Đến năm 1950, sau gần 600 tuổi, vườn cây thuốc này vẫn xanh tốt,
dân chúng thường mách bảo nhau lên Am Tiên núi Nưa xin thuốc tiên
những khi mắc phải chứng bệnh đau ốm không rõ nguyên nhân, thầy
lang bó tay lắc đầu.
không chịu phò tá tân triều, bỏ vào núi Nưa ở ẩn. Ông lánh đời nhưng
vẫn yêu đời, tự kiếm sống bằng việc hái củi đem xuống chợ đổi
lấy cá, rượu, không lấy tiền bạc, không tích lũy của cải để dành. Khi
gặp nông dân, ông hay nói những chuyện trồng dâu, trồng gai, và
chính ông cũng trồng một vườn cây thuốc để chữa bệnh cứu đời.
Đến năm 1950, sau gần 600 tuổi, vườn cây thuốc này vẫn xanh tốt,
dân chúng thường mách bảo nhau lên Am Tiên núi Nưa xin thuốc tiên
những khi mắc phải chứng bệnh đau ốm không rõ nguyên nhân, thầy
lang bó tay lắc đầu.
Theo Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam của Nhóm nghiên cứu
Lê Quý Đôn, Nguyễn Dữ vì nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, không làm
quan, ở nhà trồng vườn, chép sách, từng vào Thanh Hóa một thời gian
thu thập tài liệu, viết những truyện: Người Tiều phu núi Nưa, Từ Thức
lấy vợ tiên, Chuyện Lệ nương... Nguyễn Dữ và Trần Na chung bầu
tâm sự, hình ảnh Người Tiều phu núi Nưa là giấc mơ lý tưởng của họ
Nguyễn, cốt lõi sự thật lịch sử được di tích Am Tiên chứng minh khá rõ.
Lê Quý Đôn, Nguyễn Dữ vì nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, không làm
quan, ở nhà trồng vườn, chép sách, từng vào Thanh Hóa một thời gian
thu thập tài liệu, viết những truyện: Người Tiều phu núi Nưa, Từ Thức
lấy vợ tiên, Chuyện Lệ nương... Nguyễn Dữ và Trần Na chung bầu
tâm sự, hình ảnh Người Tiều phu núi Nưa là giấc mơ lý tưởng của họ
Nguyễn, cốt lõi sự thật lịch sử được di tích Am Tiên chứng minh khá rõ.
Nước ta có nền y học dân gian lâu đời, nhân dân ta dù tiếp thụ Bắc dược
– thuốc Bắc, vẫn chủ trương “Nam dược trị Nam nhân”, góp phần tích
cực xây dựng nền Đông y cổ truyền. Hai ông tổ trồng cây thuốc Nam,
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn với núi Dược Sơn (Kiếp Bạc, Hải
Dương), người Tiều phu ẩn sĩ Trần Na ở núi Nưa, Thanh Hóa. Chỗ
khác nhau giữa hai ông, Hưng Đạo là thân vương đại quí tộc, trong nhà
hàng trăm gia nhân, ngoài cửa hàng nghìn nô tỳ, tùy ý sai khiến, còn
Trần ẩn sĩ Tiều phu chỉ có hai bàn tay chai sạn, mọi việc đều tự lo liệu.
Cho nên, Tiều phu được nhân dân suy tôn “Ông Tiên núi Nưa”, nơi
ông ở, ngôi nhà tranh, cái am cỏ thành Am Tiên, cái giếng ông đào là
giếng tiên, phiến đá cuộc cờ được gọi bàn cờ tiên, và vườn cây thuốc
ông trồng, từng cái lá cũng hóa phép tiên... Tất cả di vật ấy đều là di
tích lịch sử-văn hóa, được sử sách ghi chép, nhân dân bảo tồn, ngành
văn hóa cấp bằng chứng nhận.
– thuốc Bắc, vẫn chủ trương “Nam dược trị Nam nhân”, góp phần tích
cực xây dựng nền Đông y cổ truyền. Hai ông tổ trồng cây thuốc Nam,
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn với núi Dược Sơn (Kiếp Bạc, Hải
Dương), người Tiều phu ẩn sĩ Trần Na ở núi Nưa, Thanh Hóa. Chỗ
khác nhau giữa hai ông, Hưng Đạo là thân vương đại quí tộc, trong nhà
hàng trăm gia nhân, ngoài cửa hàng nghìn nô tỳ, tùy ý sai khiến, còn
Trần ẩn sĩ Tiều phu chỉ có hai bàn tay chai sạn, mọi việc đều tự lo liệu.
Cho nên, Tiều phu được nhân dân suy tôn “Ông Tiên núi Nưa”, nơi
ông ở, ngôi nhà tranh, cái am cỏ thành Am Tiên, cái giếng ông đào là
giếng tiên, phiến đá cuộc cờ được gọi bàn cờ tiên, và vườn cây thuốc
ông trồng, từng cái lá cũng hóa phép tiên... Tất cả di vật ấy đều là di
tích lịch sử-văn hóa, được sử sách ghi chép, nhân dân bảo tồn, ngành
văn hóa cấp bằng chứng nhận.
Rất tiếc, Am Tiên núi Nưa-bức danh họa thiên nhiên tuyệt tác ấy,
nay đã bị lu mờ.Chốn thần tiên thanh tĩnh, ngát thơm bích đào, hồng
hạnh hóa sắc màu lòe loẹt ngu tối, sặc mùi tiền bạc, đâu còn cây kim
tiền xưa trồng hai bên tả hữu giường mây trong nhà tranh, am cỏ... Một
ngôi đền “hoành tráng”, sừng sững, kiêu hãnh hiện lên trước sự ngạc nhiên
của trời mây, cây cỏ, núi khe! Đền ba gian hai chái, cũng có hai mái,
thực chất mái trên chẳng khác cái mũ con chim chào mào! Không còn lối
kiến trúc nào “tân kỳ” hơn, các chi tiết đều đấm đá lẫn nhau đôm đốp,
khỏi bàn, tốn giấy mực, chỉ cần tóm gọn một câu: “Phi cổ, phi kim,
phi truyền thống” !. Ngôi đền không phải tôn tạo mà tôn tạo này thờ ai?
Hay để kỷ niệm vị nào? Nó không thờ tiên, phật, thánh, thần gì, cũng
chẳng kỷ niệm nữ anh hùng núi Nưa: “Cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng
sóng dữ, chém cá Tràng kình biển Đông” ... mà thờ Mẫu! Lại thờ Mẫu!
Tại sao đâu đâu người ta cũng dùng chiêu bài thờ Mẫu ? Nhưng cụ thể
Mẫu nào? Thần linh được thờ phải có tính danh, lai lịch, không thể
“hòn đất cất lên ông bụt”. Thấy người vái, mình cũng lạy!
nay đã bị lu mờ.Chốn thần tiên thanh tĩnh, ngát thơm bích đào, hồng
hạnh hóa sắc màu lòe loẹt ngu tối, sặc mùi tiền bạc, đâu còn cây kim
tiền xưa trồng hai bên tả hữu giường mây trong nhà tranh, am cỏ... Một
ngôi đền “hoành tráng”, sừng sững, kiêu hãnh hiện lên trước sự ngạc nhiên
của trời mây, cây cỏ, núi khe! Đền ba gian hai chái, cũng có hai mái,
thực chất mái trên chẳng khác cái mũ con chim chào mào! Không còn lối
kiến trúc nào “tân kỳ” hơn, các chi tiết đều đấm đá lẫn nhau đôm đốp,
khỏi bàn, tốn giấy mực, chỉ cần tóm gọn một câu: “Phi cổ, phi kim,
phi truyền thống” !. Ngôi đền không phải tôn tạo mà tôn tạo này thờ ai?
Hay để kỷ niệm vị nào? Nó không thờ tiên, phật, thánh, thần gì, cũng
chẳng kỷ niệm nữ anh hùng núi Nưa: “Cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng
sóng dữ, chém cá Tràng kình biển Đông” ... mà thờ Mẫu! Lại thờ Mẫu!
Tại sao đâu đâu người ta cũng dùng chiêu bài thờ Mẫu ? Nhưng cụ thể
Mẫu nào? Thần linh được thờ phải có tính danh, lai lịch, không thể
“hòn đất cất lên ông bụt”. Thấy người vái, mình cũng lạy!
Tục thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian nước ta, thuộc thế giới thần linh vô
cùng phức tạp, một công trình thần học lớn, đầy khó khăn, không dễ thực
hiện. Ở đây, chúng ta khoanh vấn đề trong phạm vi một loại hình tín
ngưỡng thời phong kiến độc lập tự chủ, bắt đầu từ lịch sử Trung đại...
cùng phức tạp, một công trình thần học lớn, đầy khó khăn, không dễ thực
hiện. Ở đây, chúng ta khoanh vấn đề trong phạm vi một loại hình tín
ngưỡng thời phong kiến độc lập tự chủ, bắt đầu từ lịch sử Trung đại...
Tín ngưỡng thờ Mẫu nước ta ra đời khoảng giữa thế kỷ XVI. Mẫu vốn
là Quỳnh Hoa công chúa, con gái Ngọc Hoàng, có lỗi bị vua cha đầy
xuống hạ giới, thác sinh vào nhà họ Lê, dòng dõi Lê Thái Tổ. Hết
hạn lưu đầy, chúa tiên lưu luyến trần gian, tha thiết xin Ngọc Hoàng cho
ở lại giúp đời, cứu người. Lần giáng trần thứ ba, chúa tiên Quỳnh Hoa
tức Liễu Hạnh đóng đô phủ tại Phố Cát, Thanh Hóa quê hương. Bấy giờ
nhà Mạc lên ngôi vua ở Thăng Long, con cháu họ Lê thất thế chạy vào
Thanh Hoa dấy nghiệp Trung hưng, khôi phục đế nghiệp. Hai bên chiến
tranh, đất nước điêu linh, xã hội điêu tàn, nhân dân điêu đứng, tạo nên
mảnh đất mê tín dị đoan nảy nở. Liễu Hạnh được vua Lê Trung tông
phong là Thế Thắng Hòa Diệu đại vương. Đời Nguyễn, vua Gia Long
sắc phong bà làm “Mẫu nghi thiên hạ”. Tín ngưỡng thờ Mẫu bắt đầu
từ đây. Sau dân gian sáng tạo thêm Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thủy
Cung để cai quản cả 3 thế giới: Trời, Đất, Nước, gọi là tam phủ, họp
làm bộ ba tam tòa Thánh Mẫu, hình thành Đạo Mẫu, đối lập với Đạo
Đông xuất hiện ở vùng quê nghèo đất biển Quảng Xương. Theo cách dân
gian gọi: Liễu Hạnh tức Mẫu Thiên. Thượng Ngàn là Mẫu Địa cai quản
rừng núi, Mẫu Thủy Cung là Mẫu Thoải (Nước) trông coi các miền
sông nước.(**)
là Quỳnh Hoa công chúa, con gái Ngọc Hoàng, có lỗi bị vua cha đầy
xuống hạ giới, thác sinh vào nhà họ Lê, dòng dõi Lê Thái Tổ. Hết
hạn lưu đầy, chúa tiên lưu luyến trần gian, tha thiết xin Ngọc Hoàng cho
ở lại giúp đời, cứu người. Lần giáng trần thứ ba, chúa tiên Quỳnh Hoa
tức Liễu Hạnh đóng đô phủ tại Phố Cát, Thanh Hóa quê hương. Bấy giờ
nhà Mạc lên ngôi vua ở Thăng Long, con cháu họ Lê thất thế chạy vào
Thanh Hoa dấy nghiệp Trung hưng, khôi phục đế nghiệp. Hai bên chiến
tranh, đất nước điêu linh, xã hội điêu tàn, nhân dân điêu đứng, tạo nên
mảnh đất mê tín dị đoan nảy nở. Liễu Hạnh được vua Lê Trung tông
phong là Thế Thắng Hòa Diệu đại vương. Đời Nguyễn, vua Gia Long
sắc phong bà làm “Mẫu nghi thiên hạ”. Tín ngưỡng thờ Mẫu bắt đầu
từ đây. Sau dân gian sáng tạo thêm Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thủy
Cung để cai quản cả 3 thế giới: Trời, Đất, Nước, gọi là tam phủ, họp
làm bộ ba tam tòa Thánh Mẫu, hình thành Đạo Mẫu, đối lập với Đạo
Đông xuất hiện ở vùng quê nghèo đất biển Quảng Xương. Theo cách dân
gian gọi: Liễu Hạnh tức Mẫu Thiên. Thượng Ngàn là Mẫu Địa cai quản
rừng núi, Mẫu Thủy Cung là Mẫu Thoải (Nước) trông coi các miền
sông nước.(**)
Đền Mẫu trên ngọn Am Tiên núi Nưa chắc thờ Mẫu Thượng Ngàn, có
thể thờ cả Mẫu Liễu Hạnh, vì là chúa tể đạo Mẫu hay tam phủ (rồi tứ
phủ công đồng), gồm Trời, Đất, Nước (vũ trụ) (***)
thể thờ cả Mẫu Liễu Hạnh, vì là chúa tể đạo Mẫu hay tam phủ (rồi tứ
phủ công đồng), gồm Trời, Đất, Nước (vũ trụ) (***)
Tuy nhiên dưới chế độ phong kiến cũng như ở thời đại cách mạng,
dù tự do tín ngưỡng, đều phải tuân thủ luật lệ (triều đình hay chính phủ),
thần nào được thờ, địa điểm ở đâu, thờ tự thế nào, quy định rõ trong
sắc phong, ngọc phả (xưa), quyết định công nhận, bằng chứng nhận di
tích (nay). Am Tiên núi Nưa đã được cấp Bằng chứng nhận một di tích
lịch sử văn hóa, không thể “sang tên”, “chuyển nhượng” cho bất cứ
Mẫu nào hay thần thánh khác, lẽ đơn giản, họ không có di tích, dấu
tích gì ở đây. Vậy tại sao Mẫu dám tranh chấp Am Tiên, mưu toan độc
chiếm núi Nưa, ngang nhiên xây dựng đền đài trên đất Tiên Ông đã
được cấp “Sổ đỏ”! Mẫu coi thường dư luận, bất chấp luật pháp đến thế ư?.
dù tự do tín ngưỡng, đều phải tuân thủ luật lệ (triều đình hay chính phủ),
thần nào được thờ, địa điểm ở đâu, thờ tự thế nào, quy định rõ trong
sắc phong, ngọc phả (xưa), quyết định công nhận, bằng chứng nhận di
tích (nay). Am Tiên núi Nưa đã được cấp Bằng chứng nhận một di tích
lịch sử văn hóa, không thể “sang tên”, “chuyển nhượng” cho bất cứ
Mẫu nào hay thần thánh khác, lẽ đơn giản, họ không có di tích, dấu
tích gì ở đây. Vậy tại sao Mẫu dám tranh chấp Am Tiên, mưu toan độc
chiếm núi Nưa, ngang nhiên xây dựng đền đài trên đất Tiên Ông đã
được cấp “Sổ đỏ”! Mẫu coi thường dư luận, bất chấp luật pháp đến thế ư?.
Hoàn toàn không phải! Mẫu đi mây về gió, ngao du cả “thế giới ba
nghìn” (Tam đại tam thiên thế giới) đã có hàng trăm đền phủ trong
nước được quy định từ thời phong kiến, thiếu gì chốn đô hội
mà phải “bành trướng” hết dãy núi Nưa? Chẳng qua bởi trò đời
phú quý sinh lễ nghĩa, bị những kẻ nhiễu sự bày đặt ra cả.
nghìn” (Tam đại tam thiên thế giới) đã có hàng trăm đền phủ trong
nước được quy định từ thời phong kiến, thiếu gì chốn đô hội
mà phải “bành trướng” hết dãy núi Nưa? Chẳng qua bởi trò đời
phú quý sinh lễ nghĩa, bị những kẻ nhiễu sự bày đặt ra cả.
Người ta đâu phải xuất phát từ tấm lòng thành kính Mẫu, lạm dụng
quyền lực tự do tín ngưỡng, lợi dụng danh nghĩa Mẫu, nếu không
vì lợi ích cá nhân thì vì Mẫu chăng? Vô tình hay cố ý, họ đã xúc phạm
Mẫu, làm tổn hại danh dự, danh thơm vị tiên chúa “Mẫu nghi thiên hạ”!
quyền lực tự do tín ngưỡng, lợi dụng danh nghĩa Mẫu, nếu không
vì lợi ích cá nhân thì vì Mẫu chăng? Vô tình hay cố ý, họ đã xúc phạm
Mẫu, làm tổn hại danh dự, danh thơm vị tiên chúa “Mẫu nghi thiên hạ”!
Công việc xây dựng đã bất chính lại phi kiến trúc, liệu mục đích sử
dụng có hành vi bất minh?
dụng có hành vi bất minh?
Dư luận du khách gần xa, ngày càng thêm nhiều phản ứng. Đền Mẫu ở
đâu sao mà cũng giống ở đâu cả! Thì cũng thầy tướng nói thánh nói
tướng, thầy bói, bói ra ma, thầy cúng ê a sớ tấu phô-tô in sẵn, thầy
đoán thẻ tán nhăng tán cuội. Lầm tưởng đốt cả nắm hương sẽ được
Mẫu thương tình chứng giám, trong đền mù mịt khói tuôn nghẹt
thở như đang ở bầu trời Bắc Kinh ô nhiễm. Đồ hàng mã thi nhau dâng
cúng nhiều xếp núi, lửa thiêu bốc cháy bùng bùng, chợt nhớ chuyện
vua Hồ Hán Thương phóng tay đốt núi!
đâu sao mà cũng giống ở đâu cả! Thì cũng thầy tướng nói thánh nói
tướng, thầy bói, bói ra ma, thầy cúng ê a sớ tấu phô-tô in sẵn, thầy
đoán thẻ tán nhăng tán cuội. Lầm tưởng đốt cả nắm hương sẽ được
Mẫu thương tình chứng giám, trong đền mù mịt khói tuôn nghẹt
thở như đang ở bầu trời Bắc Kinh ô nhiễm. Đồ hàng mã thi nhau dâng
cúng nhiều xếp núi, lửa thiêu bốc cháy bùng bùng, chợt nhớ chuyện
vua Hồ Hán Thương phóng tay đốt núi!
Giá chầu hầu bóng đúng bài bản truyền thống xưa, điệu múa đẹp,
phong phú (****) đã bị Âu hóa thành khoe mông, phô ngực, ưỡn ẹo
phong tình. Hát Văn vốn đậm đà sắc thái dân tộc, không khỏi thương
mại hóa, bắt chước diễn viên hài, tiếng đàn nguyệt trêu hoa ghẹo
nguyệt, giọng chầu thánh sống sượng lẳng lơ...! Luồng gió tiêu cực
đã cuốn bay cát bụi mê tín dị đoan lên tận đỉnh Am Tiên thắng tích.
Tiếc thay danh tiếng Mẫu Nghi, danh thơm Tiên Chúa bị kẻ phàm tục
kinh doanh lợi dụng! Họ nghĩ rằng vô sư vô sách quỷ thần bất trách,
nhưng Luật di sản lẽ nào chớp mắt bỏ qua?
phong phú (****) đã bị Âu hóa thành khoe mông, phô ngực, ưỡn ẹo
phong tình. Hát Văn vốn đậm đà sắc thái dân tộc, không khỏi thương
mại hóa, bắt chước diễn viên hài, tiếng đàn nguyệt trêu hoa ghẹo
nguyệt, giọng chầu thánh sống sượng lẳng lơ...! Luồng gió tiêu cực
đã cuốn bay cát bụi mê tín dị đoan lên tận đỉnh Am Tiên thắng tích.
Tiếc thay danh tiếng Mẫu Nghi, danh thơm Tiên Chúa bị kẻ phàm tục
kinh doanh lợi dụng! Họ nghĩ rằng vô sư vô sách quỷ thần bất trách,
nhưng Luật di sản lẽ nào chớp mắt bỏ qua?
Có ý kiến đề nghị Đền Mẫu Am Tiên nên thờ cả Tiên Ông Tiều phu,
hai vị đoàn kết một nhà là vui vẻ cả! Không được! Tiên có nhiều loại:
Thiên tiên, Địa tiên, Thủy tiên, Hải tiên, Sơn tiên,... và các tông phái:
Tịch cốc, Đan đỉnh, Dược sư, Pháp lục... Hai vị ấy đối lập nhau, không
thể xe kết một nhà, ngồi chung một chiếu!
hai vị đoàn kết một nhà là vui vẻ cả! Không được! Tiên có nhiều loại:
Thiên tiên, Địa tiên, Thủy tiên, Hải tiên, Sơn tiên,... và các tông phái:
Tịch cốc, Đan đỉnh, Dược sư, Pháp lục... Hai vị ấy đối lập nhau, không
thể xe kết một nhà, ngồi chung một chiếu!
Ai đã dám bày ra tất dám cất đi, hãy trả lại tất cả di tích Am Tiên cho
Am Tiên di tích! Cung kính rước Mẫu về Tử phủ Thanh đô, những Phố
Cát, Hàn Sơn... Loan giá hồi cung, trong tiếng đàn, câu hát văn cổ
truyền du dương, đằm thắm:
Am Tiên di tích! Cung kính rước Mẫu về Tử phủ Thanh đô, những Phố
Cát, Hàn Sơn... Loan giá hồi cung, trong tiếng đàn, câu hát văn cổ
truyền du dương, đằm thắm:
Trên đồi ngàn gió thổi rung cây
Dưới khe con cá lội, đàn chim bay về ngàn
Chim bay về đến đền Hàn
Thuyền xô sóng vỗ, hò khoan mái chèo
Hò khoan dô khoan ớ dô ô ô khoan oan...
Theo HOÀNG TUẤN PHỔ
Thông tin liên hệ
QUẢNG CÁO TRỊNH GIA
Skype: trinhthangtn
Email: trinhthangtn@gmail.com
Địa chỉ: 175 Long Vân - Xã Đồng Lợi - Huyện Triệu Sơn - Thanh Hóa
Điện thoại:- 0912688861
Thông tin chuyển khoản
Ngân hàng Agribank CN Từ Sơn 2
Chủ tài khoản: Trịnh Đình Thắng
Số tài khoản: 2603205136357
Nhận xét